Giả danh người khác đi làm, người lao động mất hết quyền lợi đóng BHXH
22-07-2023 09:07Theo thống kê, có khoảng hơn 37000 trường hợp người lao động sử dụng hồ sơ lý lịch của người khác để đi làm và tham gia BHXH, BHTN, BHYT bắt buộc tại các Doanh nghiệp vì nhiều lý do như: chưa đủ tuổi, lớn tuổi, hồ sơ cá nhân vướng,…Việc làm này dẫn đến một thực tại, có rất nhiều người tham gia BHXH, BHTN, BHYT bắt buộc nhiều năm liền nhưng không được hưởng các quyền lợi tương ứng. Cụ thể như trường hợp của bà Thắm: năm 1996, em gái bà Thắm trúng tuyển vào công ty A, tiện tên em gái, bà Thắm giả danh đi làm thay để em gái làm ở công ty khác. Sau đó 2 năm, bà đi làm tại khách sạn B, làm việc cho doanh nghiệp nước ngoài, lo lắng bị phát hiện không trung thực bị mất việc, bà Thắm vẫn tiếp tục lấy tên em gái để đi làm, mà không sang tên hồ sơ. Tháng 7/2020 khi dịch Covid 19 bùng phát, bà Thắm nằm trong danh sách nghỉ việc, lúc này bà mới làm hồ sơ để thay đổi nhân thân. Bà nộp hồ sơ nhưng không được xử lý. Giữa năm 2022, Bộ lao động – Thương binh xã hội ra văn bản liên quan đến việc cho mượn hồ sơ đi làm là không trung thực, làm sai quy định của pháp luật, để giải quyết Bộ hướng dẫn, trước hết HĐLĐ đó phải được tòa án tuyên vô hiệu, sau đó cơ quan BHXH mới điều chỉnh thông tin. Mặc dù vậy, công ty đầu tiên nơi bà Thắm mượn hồ sơ của em gái đã giải thể, bà không thể liên hệ để làm hồ sơ. Đến nay hồ sơ của bà Thắm vẫn không được xử lý, đã 4 năm trôi qua, bà Thắm không thể lãnh lương hưu.
Giả danh người thân đi làm, đóng BHXH là hành vi vi phạm pháp luật, đối với những trường hợp này vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể về việc điều chỉnh lại thông tin nhân thân để hưởng các quyền lời liên quan đến BHXH về sau. Ít người lao động hiểu được rằng, việc giả mạo hồ sơ đi làm là sai quy định của pháp luật.
Cụ thể, tại Điều 17 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 có quy định các hành vi bị nghiêm cấm như sau:
1. Trốn đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp.
2. Chậm đóng tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp.
3. Chiếm dụng tiền đóng, hưởng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp.
4. Gian lận, giả mạo hồ sơ trong việc thực hiện bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp.
5. Sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội, quỹ bảo hiểm thất nghiệp không đúng pháp luật.
6. Cản trở, gây khó khăn hoặc làm thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động, người sử dụng lao động.
7. Truy cập, khai thác trái pháp luật cơ sở dữ liệu về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp.
8. Báo cáo sai sự thật; cung cấp thông tin, số liệu không chính xác về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp.
Theo đó, việc mượn hồ sơ, kê khai thông tin tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp sai sự thật, sẽ vi phạm khoản 4 Điều 17 Luật Bảo hiểm xã hội 2014. Điều này có nghĩa là người lao động sẽ không được hưởng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp trong khoảng thời gian mạo danh đóng bảo hiểm xã hội và quá trình trùng đóng sẽ không hưởng khi xảy ra tranh chấp.
Ngoài ra, hành vi giả mạo người khác đóng bảo hiểm xã hội còn bị xử phạt theo quy định của pháp luật tại điểm a khoản 1 điều 39 Nghị định 28/2020/NĐ-CP năm 2020 quy định như sau:
“Điều 39. Vi phạm quy định về lập hồ sơ để hưởng chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp
1. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với người lao động có một trong các hành vi vi phạm sau đây:
a) Kê khai không đúng sự thật hoặc sửa chữa, tẩy xóa làm sai sự thật những nội dung có liên quan đến việc hưởng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự;
Vậy người lao động khi đi làm lưu ý, vì bất kỳ lý do gì cũng không mạo danh người khác đi làm, hãy luôn trung thực với thông tin cá nhân của mình để không để xảy ra những sự việc không mong muốn.