Cho mượn sổ đóng BHXH hậu quả ít ai ngờ

22-07-2023 09:07

Năm 2010 khi chị A đi làm xa nhà, mẹ chị đã cho người cháu họ mượn CMND của chị A để đi làm công ty, do thấy cháu có hoàn cảnh khó khăn và chưa đủ tuổi. Sáu năm sau, khi sinh em bé thứ 2, chị A muốn nghỉ ở nhà 1 năm để chăm con nhưng không thể làm thủ tục để hưởng bảo hiểm thất nghiệp, do bị trùng sổ 1 năm, yêu cầu có xác nhận của người mượn sổ để giải quyết thủ tục. Chị A tìm đến người em họ để phối hợp xử lý nhưng bị từ chối, lý do là vì người này nghĩ chị A sẽ lãnh hết tiền bảo hiểm xã hội mà không chia cho mình. Mặc dù chị A đã giải thích và đảm bảo trả lại số tiền mà người em họ đã đóng trong vòng 1 năm, nhưng vấn đề giữa 2 chị em vẫn không được giải quyết. Sợ không thể hưởng BHXH trong 13 năm đóng BHXH, chị A tiếp tục liên hệ các cơ quan để xử lý phần sổ trùng, được hướng dẫn về cty cũ để gộp, tuy nhiên cty cũ đã giải thể, nên không xử lý được. Đến hiện tại, chị A vẫn chưa xử lý được vấn đề và dự rằng sẽ rất khó khăn trong việc lãnh các quyền lợi liên quan đến BHXH sau này.

Câu chuyện của chị A tại Đồng Nai, chắc rằng như một hồi chương cảnh tỉnh đối với những ai đang có ý định cho người thân mượn hồ sơ đi làm. Đây là hành vi vi phạm pháp luật cụ thể, tại Điều 17 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 có quy định các hành vi bị nghiêm cấm như sau:

1. Trốn đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp.

2. Chậm đóng tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp.

3. Chiếm dụng tiền đóng, hưởng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp.

4. Gian lận, giả mạo hồ sơ trong việc thực hiện bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp.

5. Sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội, quỹ bảo hiểm thất nghiệp không đúng pháp luật.

6. Cản trở, gây khó khăn hoặc làm thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động, người sử dụng lao động.

7. Truy cập, khai thác trái pháp luật cơ sở dữ liệu về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp.

8. Báo cáo sai sự thật; cung cấp thông tin, số liệu không chính xác về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp.

Theo đó, việc mượn hồ sơ, kê khai thông tin tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp sai sự thật, sẽ vi phạm khoản 4 Điều 17 Luật Bảo hiểm xã hội 2014. Điều này có nghĩa là người lao động sẽ không được hưởng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp trong khoảng thời gian cho mượn hồ sơ đóng bảo hiểm xã hội và quá trình trùng đóng sẽ không hưởng khi xảy ra tranh chấp.

Ngoài ra, hành vi cho mượn hồ sơ đóng bảo hiểm xã hội còn bị xử phạt theo quy định của pháp luật tại điểm a khoản 1 điều 39 Nghị định 28/2020/NĐ-CP năm 2020 quy định như sau:

“Điều 39. Vi phạm quy định về lập hồ sơ để hưởng chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp

1. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với người lao động có một trong các hành vi vi phạm sau đây:

a) Kê khai không đúng sự thật hoặc sửa chữa, tẩy xóa làm sai sự thật những nội dung có liên quan đến việc hưởng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự;

Vậy người lao động khi đi làm lưu ý, không được cho người khác mượn thông tin, làm hồ sơ giả đi làm, tránh trường hợp xảy ra tranh chấp liên quan đến quá trình đóng BHXH sẽ không được xử lý theo quy định của Pháp luật.